Tại sao nói quản lí hành vi của học sinh, thực chất là quản lí củng cố trong quá trình vận hành của hành vi

Tại sao nói quản lí hành vi của học sinh, thực chất là quản lí củng cố trong quá trình vận hành của hành vi

Tại sao nói quản lí hành vi của học sinh, thực chất là quản lí củng cố trong quá trình vận hành của hành vi

Tại sao nói quản lí hành vi của học sinh, thực chất là quản lí củng cố trong quá trình vận hành của hành vi

       Thuật ngữ hành vi đã được xem xét bởi rất nhiều nhà nghiên cứu về hành vi và quản lí hành vi. Theo một số nhà hành vi học thì hành vi được đề cập đến với cả những phản ứng bên trong (như cảm giác hay cảm xúc) và những phản ứng bên ngoài (như sự cáu giận hay gây gổ) (Rimm&Masters, 1974).

       Một số nhà hành vi học khác lại quan niệm hành vi là những phản ứng ra bên ngoài hoặc là những biểu hiện có thể quan sát và đo đạc được. Quan sát và đo đạc được là những tiêu chí quan trọng giúp chúng ta có thể đánh giá, điều chỉnh được hành vi, làm cho hành vi trở nên có ý nghĩa.

       Những nghiên cứu về hành vi và vấn đề quản lí hành vi trong giáo dục quan niệm hành vi là những phản ứng của trẻ mà giáo viên và cha mẹ có thể quan sát được và có thể điều chỉnh. Những yếu tố bên trong là những yếu tố không thể quan sát được những có tác dụng chi phối hoặc là nguyên nhân dẫn đến hành vi. Tóm lại, có thể hiểu hành vi là cách biểu hiện ra bên ngoài của mỗi cá thể đối với các kích thích.

       Mặc dù sự củng cố thường được hiểu là “phần thưởng”, thuật ngữ này có một ý nghĩa đặc biệt trong tâm lý học. Một củng cố là hệ quả bất kỳ làm tăng cường các hành vi theo sau nó. Vì vậy, theo định nghĩa, những hành vi được củng cố tăng lên theo tần số hoặc thời gian. Bất cứ khi nào bạn nhìn thấy một hành vi vẫn đang tiếp tục hoặc gia tăng theo thời gian, bạn có thể giả định những hệ quả của hành vi đó là củng cố cho các cá nhân liên quan. Quá trình củng cố có thể được biểu diễn bằng biểu đồ sau:

                                                 HỆ QUẢ                                    TÁC ĐỘNG

                                                   Hành vi  =>  Củng cố  =>  Hành vi được tăng cường hoặc lặp lại

       Có hai loại củng cố. Đầu tiên, được gọi là củng cố tích cực, xảy ra khi các hành vi tạo ra các kích thích mới. Ví dụ như mổ trên phím màu đỏ tạo ra thức ăn cho chim bồ câu, mặc một bộ đồ mới sản xuất nhận được nhiều lời khen ngợi, hoặc ngã ra khỏi chiếc ghế của bạn tạo ra những cổ vũ và tiếng cười từ các bạn cùng lớp.

       Chú ý rằng củng cố tích cực có thể xảy ra ngay cả khi hành vi đã được củng cố (ngã ra khỏi một chiếc ghế) không phải là “tích cực” từ quan điểm của giáo viên. Trong thực tế, củng cố tích cực của các hành vi không phù hợp xảy ra một cách vô tình trong nhiều lớp học. Giáo viên giúp duy trì các hành vi có vấn đề bằng cách vô tình củng cố chúng.

       Khi hệ quả làm tăng cường một hành vi là sự xuất hiện (thêm) của một kích thích mới, tình huống này được định nghĩa là củng cố tích cực. Ngược lại, khi các hệ quả làm tăng cường một hành vi là sự biến mất (trừ) của một kích thích, quá trình này được gọi là củng cố tiêu cực. Nếu một hành động cụ thể dẫn đến việc tránh hoặc thoát ra một tình huống khó chịu, hành động đó có thể được lặp đi lặp lại trong một tình huống tương tự.

       Một ví dụ phổ biến là còi xe thắt dây an toàn của ô tô. Ngay sau khi bạn thắt dây an toàn, tiếng còi khó chịu dừng lại. Bạn có khả năng lặp lại hành vi này (thắt dây an toàn) trong tương lai bởi vì hành động được thực hiện dẫn đến một kích thích khó chịu (còi) biến mất.

       Xem xét những học sinh liên tục “bị ốm” ngay trước một bài kiểm tra và được gửi đến phòng y tế. Hành vi cho phép các học sinh thoát khỏi tình huống khó chịu là các bài kiểm tra, do đó, việc “ốm” là đang được duy trì, một phần, thông qua củng cố tiêu cực. Nó là tiêu cực do việc kích thích (bài kiểm tra) biến mất; đó là củng cố bởi vì hành vi gây ra kích thích dẫn đến việc biến mất (“ốm”) tăng hoặc lặp đi lặp lại. Nó cũng có thể do điều kiện hóa cổ điển đóng một vai trò.

       “Tiêu cực” trong củng cố tiêu cực không có nghĩa là hành vi được củng cố nhất thiết phải là tiêu cực hay xấu (theo nghĩa xã hội). Ý nghĩa gần hơn của “tiêu cực” tức là một cái gì đó đã bị loại trừ. Kết hợp củng cố tích cực và tiêu cực với cách thêm hoặc loại trừ một cái gì đó theo sau một hành vi cái mà làm tăng cường (củng cố) hành vi.

       Đối với các nhà tâm lí học hành vi (J.Watson, B.Skinnrer, A. Bandura), yếu tố quyết định việc hình thành, điều chỉnh hay làm mất hành vi là củng cố. Vì vậy, quản lí hành vi của học sinh, thực chất là quản lí củng cố trong quá trình vận hành của hành vi.